Cơ cấu hành chính của Nghệ An gồm 20 huyện, thành phố, thị xã với 473 xã, phường và thị trấn trong đó có 244 xã, thị trấn miền núi. Nghệ An có địa hình dốc thoải dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi cao và hệ thống sông suối chằng chịt với đỉnh núi cao nhất là Puxalaileng tại Na Ngoi - Kỳ Sơn cao 2711m, thấp nhất là vùng đồng bằng phù sa Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành. Cấu tạo địa hình của tỉnh có thể chia làm 3 vùng: núi, đồi và đồng bằng, trong đó vùng đồi núi chiếm 83% diện tích toàn tỉnh. Nguồn tài nguyên tự nhiên của Nghệ An phong phú đa dạng bao gồm hải đảo, sông ngòi, rừng, núi, hang độni hình du lịch tham quan, nghiên cứu, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, tắm biển, thể thao, leo núi…g, thác nước và nhiều cảnh quan, danh thắng còn giữ được vẻ hoang sơ, rất thuận lợi để phát triển các loại
Du lịch Nghệ An
Bên cạnh đó, Nghệ An còn được biết đến là vùng đất có bề dày lịch sử và truyền thống cách mạng với hệ thống di tích lịch sử, di tích khảo cổ, công trình kiến trúc, phong tục tập quán, lễ hội và thơ ca, hò, vè…nhiều về số lượng, đa dạng về tính chất, phong phú về hình thức đã góp phần tạo nên kho tàng văn hoá độc đáo, hấp dẫn.
Nghệ An có vị trí địa lý nằm trên tuyến giao thông đường sắt, đường bộ xuyên Việt, có quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh đi qua, có sân bay, cảng biển, đồng thời là một trong những cửa ngõ quan trọng của tuyến hành lang kinh tế Đông Tây nối liền Myanma - Thái Lan - Lào - Việt Nam với biển Đông qua các cửa khẩu Nậm Cắn, Thanh Thuỷ. Đó là lợi thế rất quan trọng để mở rộng quan hệ hợp tác giao lưu kinh tế và phát triển du lịch với các nước trong khu vực.
II. Tiềm năng và điều kiện phát triển du lịch.
1.Tài nguyên thiên nhiên.
Nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên của Nghệ An khá phong phú, đa dạng, còn hoang sơ, chưa bị ảnh hưởng, tác động nhiều của con người. Tiêu biểu đó là hệ thống rừng nguyên sinh Pù Mát, Pù Huống, Pù Hoạt ở khu vực phía Tây Nghệ An, thuộc dạng lớn nhất trong cả nước và đã được UNESSCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới với quan cảnh thiên nhiên nguyên sơ, hùng vĩ, nhiều thác nước đẹp và nhiều loài động thực vật quý hiếm.
Hệ sinh thái động thực vật: Rừng Nghệ An có hệ sinh thái đa dạng với 1.513 loài thực vật bậc cao, 241 loài động vật tập trung chủ yếu ở các khu dự trữ sinh quyển thế giới như: Vườn quốc gia Pù Mát, Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, Pù Hoạt…rất thuận lợi cho việc phát triển loại hình du lịch sinh thái, du lịch khám phá, mạo hiểm…
Hệ thống hang động: Nghệ An là khu vực có nhiều núi đá vôi nên đã tạo ra hệ thống hang động tương đối phong phú, có nhiều hang động nổi tiếng được thiên nhiên kiến tạo độc đáo và gắn với các phát hiện về di tích khảo cổ tại các hang động này như: hang Thẩm Ồm, hang Bua, hang Thẩm Chạng, hang Cỏ Ngùn (Quỳ Châu), hang Poòng (Quỳ Hợp)….
Hệ thống thác nước: Do cấu tạo địa hình phức tạp, có nhiều núi cao, vực sâu nên đã hình thành nên nhiều loại thác nước khác nhau ở miền Tây Nghệ An như: thác Khe Kèm (nằm trong vườn quốc gia Pù Mát), thác Xao Va, thác Bảy tầng, thác Ba Cảnh (Quế Phong), thác Đũa (Quỳ Châu)…
Nguồn nước khoáng và suối nước nóng: Một số điểm trên địa bàn có chất lượng suối nước khoáng nóng có thể chữa bệnh và phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng như: nước khoáng nóng Giang Sơn - Đô Lương, nước khoáng Bản Khạng…
Vùng biển Nghệ An có bờ biển trải dài trên 82km, dọc bờ biển có 6 cửa lạch (lạch Cờn, lạch Quèn, lạch Thới, lạch Vạn, Cửa Lò, Cửa Hội) với độ sâu từ 1-3,5m thuận lợi cho tàu thuyền ra vào. Bờ biển Nghệ An dài, phẳng với nhiều bãi tắm đẹp, cát trắng, nước trong, có độ mặn vừa phải, môi trường trong lành, nhiệt độ bình quân nước biển trong cả năm là 20 độ C, số lượng giờ nắng nhiều, thuận tiện cho sự phát triển loại hình du lịch nghỉ dưỡng, tắm biển, chữa bệnh như Cửa Lò, Bãi Lữ, Quỳnh Phương, Quỳnh Lập, Diễn Thành…
2. Tài nguyên nhân văn
Với truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc, chinh phục, cải tạo thiên nhiên và xã hội của Nghệ An đã tạo ra cho mảnh đất Nghệ An có một bề dày về văn hóa, lịch sử, kho tàng văn hóa kiến trúc và nét văn hóa ứng xử riêng có của Nghệ An. Nhiều công trình, di tích lịch sử lưu danh các lãnh tụ, anh hùng, danh nhân lịch sử, khoa bảng, các nhà khoa học, nhà văn hóa của Việt Nam vẫn còn được lưu giữ. Hiện nay, trên địa bàn Nghệ An có hơn 1.000 di tích đã được nhận biết, trong đó có 125 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 109 di tích được xếp hạng cấp tỉnh, đặc biệt Khu di tích Kim Liên - Nam Đàn, hệ thống di tích gắn liền với thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới vừa được Chính phủ công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia hạng đặc biệt .
Nghệ An có 24 lễ hội đặc trưng gắn liền với sinh hoạt cộng đồng, lễ hội mang màu sắc âm hưởng dân gian, phản ánh cuộc sống và tâm nguyện của người dân về cuộc sống. Lễ hội ở Nghệ An tổ chức trải dài trong năm trong đó tập trung nhiều vào đầu năm (tính theo âm lịch), gắn với ngày hội mùa màng, lễ tết của từng vùng, từng dân tộc, lễ hội tưởng nhớ các vị anh hùng đã có công bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Một số lễ hội đã thu hút đông đảo khách thập phương như lễ hội đền Cờn, lễ hội đền Cuông, lễ hội Vua Mai, lễ hội đền Hoàng Mười, lễ hội Hang Bua,…
Cùng với các lễ hội truyền thống, Nghệ An có nhiều các sản phẩm và làng nghề thủ công truyền thống đa dạng và lâu đời. Làng nghề ở đây gắn liền với phong tục tập quán, tâm linh và sinh hoạt cộng đồng của người dân tại các bản làng, các làng nghề truyền thống được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác: Làng đan nứa trúc ở Xuân Nha (Hưng Nguyên), làng rèn ở Nho Lâm, làng đục, chạm trổ đá ở Diễn Bình (Diễn Châu), dệt Phường Lịch (Diễn Châu), dệt thổ cẩm, thêu đan của các đồng bào các dân tộc Thái, H’Mông, làng nghề mây tre đan ở Nghi Lộc,…
Không chỉ có vậy, Nghệ An còn có nhiều di sản văn hóa phi vật thể có giá trị như văn học dân gian, âm nhạc dân gian, múa dân gian, các phong tục, tập quán, lễ hội, văn hóa ẩm thực, làng nghề truyền thống…trong đó Dân ca Ví dặm Xứ Nghệ đang trong quá trình lập hồ sơ đề nghị công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia và đã được đưa vào danh mục lập hồ sơ trình Chính phủ đề nghị UNESSCO công nhận là văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại. Đó là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá có khả năng tạo ra các sản phẩm du lịch hấp dẫn.
Nhìn chung, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng, kết hợp với nguồn tài nguyên nhân văn mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam gắn liền với cuộc sống của người bản địa mang lại cho du lịch Nghệ An một bản sắc riêng hấp dẫn khách du lịch cả trong và ngoài nước.
III. Khái quát một số kết quả về hoạt động du lịch
- Những năm qua du lịch Nghệ An đã có bước đổi thay nhanh chóng, kết cấu hạ tầng du lịch được quan tâm đầu tư, nâng cấp và phát triển. Nhiều tuyến đường giao thông tiếp cận các khu du lịch trọng điểm của tỉnh được đầu tư xây dựng, nhất là đối với khu vực ven biển. Sân bay Vinh được nâng cấp đủ khả năng đón máy bay lớn hơn; hệ thống bưu chính viễn thông, điện, cấp thoát nước ngày càng hoàn thiện và hiện đại hoá.
- Nhiều công trình văn hóa, di tích lịch sử, di tích cách mạng được quan tâm đầu tư xây dựng và bảo tồn tôn tạo, trong đó một số công trình như Dự án Bảo tồn tôn tạo Khu di tích lịch sử văn hoá Kim Liên, Khu mộ Bà Hoàng Thị Loan, Quảng trường Hồ Chí Minh và Tượng đài Bác Hồ, Đền thờ vua Quang Trung, chùa Đảo Ngư…đã hoàn thành đưa vào hoạt động trở thành những điểm du lịch văn hoá, tâm linh hấp dẫn đối với du khách và nhân dân cả nước.
- Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ du lịch phát triển nhanh chóng cả về quy mô và chất lượng, góp phần làm thay đổi bộ mặt của nhiều vùng quê, đô thị. Đến thời điểm hiện tại trên địa bàn toàn tỉnh có 549 cơ sở lưu trú với 12.043 phòng, 22.487 giường, trong đó có 4 khách sạn 4 sao, 8 khách sạn 3 sao và gần 50 khách sạn 1- 2 sao. Toàn tỉnh có 26 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, trong đó có 09 đơn vị lữ hành quốc tế, 17 đơn vị lữ hành nội địa.
- Sản phẩm du lịch, dịch vụ từng bước được đa dạng hóa và nâng cao chất lượng với trọng tâm là du lịch văn hoá lịch sử gắn với lễ hội và tâm linh, du lịch nghỉ dưỡng, trong đó Khu di tích Kim Liên, Bãi biển Cửa Lò đã trở thành điểm đến hấp dẫn và là địa chỉ đỏ trên bản đồ du lịch Việt Nam.
- Công tác tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch được đẩy mạnh và đem lại hiệu quả thiết thực, tổ chức được nhiều hoạt động văn hoá, du lịch gắn với các sự kiện chính trị trọng đại của đất nước để quảng bá hình ảnh Nghệ An đến với du khách và nhân dân cả nước. Hoạt động liên kết hợp tác phát triển du lịch với các tỉnh trong nước, trong khu vực ngày càng được mở rộng.
- Đội ngũ lao động có bước trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Hệ thống trường có đào tạo nghề du lịch phát triển khá nhanh, chất lượng đào tạo từng bước được cải thiện.
- Hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh Nghệ An ngày càng tăng trưởng nhanh và hiệu quả ngày càng rõ. Tổng lượng khách du lịch đến Nghệ An giai đoạn 2006 - 2010 tăng bình quân 14,4% năm, tổng doanh thu dịch vụ du lịch tăng bình quân 23,7%/năm. Riêng năm 2011, mặc dù gặp nhiều khó khăn do lạm phát kinh tế toàn cầu, du lịch Nghệ An vẫn đạt mức tăng trưởng khá, tổng lượng khách du lịch đạt 2,95 triệu lượt, trong đó có trên 98.000 lượt khách quốc tế, tổng doanh thu dịch vụ du lịch toàn ngành đạt 1.317 tỷ đồng, bằng 130% so với năm 2010, trong đó danh thu khách quốc tế ước đạt 17 triệu USD. Hoạt động du lịch cũng tạo việc làm cho gần 13.000 lao động trực tiếp và gián tiếp trên địa bàn.
IV. Phương hướng, mục tiêu phát triển du lịch Nghệ An đến năm 2020
1. Phương hướng:
- Tiếp tục khai thác có hiệu quả thế mạnh tài nguyên du lịch của tỉnh, tăng cường nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật, chủ động hội nhập và gắn kết du lịch Nghệ An với khu vực Bắc miền Trung và du lịch cả nước, quốc tế; đảm bảo tốc độ phát triển nhanh, bền vững.
- Phát triển du lịch phải gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ phát triển văn hoá, nhất là bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giáo dục truyền thống, bảo vệ môi trường, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền biên giới và biển đảo.
- Mở rộng và kết hợp các loại hình du lịch (sinh thái, văn hoá lịch sử, tâm linh, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, vui chơi giải trí,…) nhằm tạo sự đa dạng trong hoạt động du lịch; tập trung xây dựng một số sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn, từng bước tạo dựng thương hiệu “du lịch Nghệ An”.
2. Mục tiêu phát triển du lịch
Mục tiêu tổng quát: Đưa du lịch Nghệ An thực sự là một ngành kinh tế quan trọng với bước phát triển mạnh và bền vững. Phấn đấu đến năm 2015, Nghệ An trở thành một trong những trung tâm du lịch vùng Bắc Trung Bộ và là một trong những trọng điểm của du lịch cả nước, với các sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn của khách du lịch trong và ngoài nước.
Mục tiêu cụ thể: Năm 2015 đạt 3,5 - 4,0 triệu lượt khách du lịch, doanh thu du lịch tăng bình quân 20 - 22%/năm. Đến năm 2020 đạt 5,0 - 5,5 triệu lượt khách du lịch, doanh thu du lịch tăng bình quân 17 - 18%/năm, thu hút và tạo việc làm cho trên 45.000 lao động, tỷ trọng GDP du lịch chiếm 4,5 - 5,0% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
3. Một số định hướng phát triển du lịch:
3.1. Định hướng về tổ chức không gian phát triển du lịch:
Căn cứ vào vị trí, tiềm năng và nguồn tài nguyên phát triển du lịch cũng như quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và mối liên hệ phát triển du lịch trong vùng, quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Nghệ An xác định 5 hướng phát triển không gian du lịch như sau:
- Tập trung đầu tư phát triển trung tâm dịch vụ du lịch Thành phố Vinh gắn với vùng lân cận phía nam Sông Lam.
- Phát triển du lịch theo tuyến quốc lộ 1A gắn với tài nguyên du lịch ven biển các huyện Nghi Lộc, Quỳnh Lưu, Diễn Châu, thị xã Cửa Lò và các đảo ven bờ với sản phẩm chính là du lịch nghỉ dưỡng.
- Phát triển du lịch tuyến đường 46 gắn với đường 15A, đường Hồ Chí Minh xuất phát từ Vinh đi các huyện Nam Đàn, Đô Lương, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn…với sản phẩm chính là du lịch văn hoá lịch sử gắn với Khu di tích Kim Liên.
- Phát triển du lịch theo tuyến quốc lộ 7 gắn với phát triển kinh tế xã hội miền Tây và hợp tác kinh tế với Lào, Thái Lan qua cửa khẩu Nậm Cắn. Sản phẩm chính là du lịch sinh thái Vườn quốc gia Pù Mát gắn với văn hoá cộng đồng bản địa, du lịch mạo hiểm.
- Phát triển du lịch về phía Tây Bắc theo tuyến quốc lộ 48 gắn với các tài nguyên du lịch tự nhiên rừng nguyên sinh Pù Huống, Pù Hoạt và nhiều danh lam thắng cảnh khác. Sản phẩm chính là du lịch sinh thái và văn hoá cộng đồng.
Về tổ chức không gian cụ thể, Nghệ An sẽ tập trung xây dựng 02 đô thị du lịch là thành phố Vinh và Thị xã Cửa Lò; 02 khu du lịch quốc gia là Khu di tích Kim Liên và Khu du lịch Con Cuông và vùng phụ cận với trọng tâm là Vườn quốc gia Pù Mát; 03 điểm du lịch quốc gia; 04 khu du lịch địa phương và nhiều điểm du lịch khác.
3.2. Định hướng về thị trường khách du lịch:
- Về thị trường khách quốc tế: xuất phát từ điều kiện vị trí địa lý và cơ sở hạ tầng, du lịch Nghệ An xác định thị trường khách quốc tế trong những năm tới như sau:
+ Thị trường ASEAN là thị trường khách trong khu vực đầy tiềm năng do điều kiện đi lại dễ dàng, có các yếu tố văn hoá, lịch sử tương đồng, trong đó trọng tâm là khách Việt kiều ở Lào, Đông Bắc Thái Lan về thăm thân hay kết hợp du lịch; khách các nước khác đi du lịch Lào, Thái Lan (nước thứ 3); khách du lịch từ Singapore, Malaixia đi bằng đường bộ hoặc xe caravan đến Việt Nam qua các cửa khẩu.
+ Thị trường Đông Á - Thái Bình Dương: Đây là thị trường khách quốc tế đến Việt Nam có tỷ trọng lớn nhất (xấp xỉ 50% thị phần) và có xu hướng phát triển nhanh trong thời gian tới, trong đó đối với du lịch Nghệ An sẽ tập trung cho các thị trường khách Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.
+ Thị trường Châu Âu: Đây là thị trường khách có khả năng chi trả cao nhưng cũng đòi hỏi chất lượng sản phẩm và các dịch vụ du lịch có chất lượng tốt, thân thiện với môi trường. Đối với Nghệ An sẽ từng bước đầu tư khai thác thị trường khách từ Pháp, Nga, Đức…
- Về thị trường nội địa: Đây là thị trường có ý nghĩa quyết định đối với phát triển du lịch Nghệ An trước mắt và lâu dài. Đối tượng khách là cán bộ và nhân dân cả nước về thăm quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh, tắm biển Cửa Lò, trong đó trọng tâm là Hà Nội, các tỉnh phía Bắc, sắp tới sẽ khai thác mở rộng đến miền Trung - Tây Nguyên, với hình thức chủ yếu là đi theo tuyến đường bộ, đường sắt và đường hàng không. Thứ tự ưu tiên phát triển các thị trường khách nội địa là: khách tham quan di tích lịch sử, khách du lịch nghỉ dưỡng, khách du lịch lễ hội - tâm linh, khách du lịch sinh thái, khách du lịch thương mại, công vụ,…
3.3. Định hướng về phát triển sản phẩm du lịch:
Căn cứ vào các giá trị nổi bật về tài nguyên du lịch của tỉnh. Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Nghệ An đến năm 2020 đã xác định phát triển một số sản phẩm du lịch chủ yếu sau:
- Tập trung đầu tư khai thác giá trị nổi bật của các di tích văn hoá lịch sử gắn với các lễ hội - tâm linh thành sản phẩm du lịch có sức hấp dẫn cao để thu hút khách, trong đó trọng tâm là xây dựng Khu di tích Kim Liên trở thành khu du lịch quốc gia và là điểm nhấn đặc biệt của thương hiệu du lịch Nghệ An, đồng thời mở rộng đầu tư khai thác các di tích về các danh nhân vùng lân cận như đền thờ Vua Mai, Khu di tích lịch sử Truông Bồn, Khu tưởng niệm Liệt sỹ Xô viết - Nghệ Tĩnh, Khu lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Hồng Phong, Khu lưu niệm Cụ Phan Bội Châu,…
- Phát triển bền vững sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng ven biển trên cơ sở xây dựng Thị xã Cửa Lò trở thành đô thị du lịch biển vào năm 2015; từng bước triển khai quy hoạch đầu tư phát triển du lịch đảo Ngư thành sản phẩm du lịch biển mang tính đột phá thúc đẩy du lịch phát triển nhanh, hiệu quả, đồng thời đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án đầu tư khu nghỉ dưỡng thuộc các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, nhất là các khu du lịch cao cấp đã được quy hoạch; kết hợp loại hình du lịch nghỉ dưỡng với du lịch văn hóa tâm linh, sinh thái làng quê, du lịch hội nghị, hội thảo nhằm kéo dài thời gian hoạt động trong năm của du lịch biển.
- Lựa chọn đầu tư phát triển một số sản phẩm du lịch sinh thái vùng, miền Tây Nghệ An, gắn với mô hình du lịch cộng đồng tại một số bản dân tộc để thu hút khách quốc tế; tăng cường xúc tiến kêu gọi đầu tư vào các khu du lịch sinh thái thác Xao Va, thác Kèm, hình thành các tua du lịch tham quan, tìm hiểu, đi bộ, leo núi trong Vườn quốc gia Pù Mát.
- Xây dựng Thành phố Vinh trở thành trung tâm dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí và phân phối khách du lịch của tỉnh, của vùng để thu hút khách du lịch hội nghị, hội thảo, khách thương mại, công vụ.
- Khai thác giá trị văn hóa phi vật thể như dân ca, dân nhạc, dân vũ, lễ hội, làng nghề, văn hóa ẩm thực cũng như các phong tục tập quán, ẩm thực truyền thống để tạo ra sản phẩm du lịch đặc sắc, hấp dẫn, đặc biệt là dân ca ví giặm Xứ Nghệ; phát huy tốt giá trị các lễ hội truyền thống trên địa bàn, từng bước đưa Lễ hội làng Sen, lễ hội Du lịch Cửa Lò, Lễ hội Vua Mai trở thành sự kiện có tầm ảnh hưởng lớn trong vùng, trong nước và phục vụ phát triển du lịch.
- Nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, xây dựng môi trường du lịch an toàn, thân thiện, phát triển bền vững, trong đó trọng tâm là nâng cao chất lượng dịch vụ, chất lượng phục vụ trong các cơ sở lưu trú du lịch, nhà hàng, doanh nghiệp lữ hành, vận chuyển khách theo đúng chuẩn mực và hệ thống tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam. Tăng cường công tác bảo đảm an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác cứu hộ, cứu nạn tại các điểm tham quan, du lịch và cơ sở kinh doanh dịch vụ.
3.4. Định hướng về quảng bá xúc tiến du lịch:
- Tập trung xây dựng thương hiệu du lịch Nghệ An cũng như thương hiệu doanh nghiệp du lịch Nghệ An nhằm tạo dựng hình ảnh hấp dẫn, tin cậy đối với bạn bè và du khách.
- Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch trong nước và nước ngoài. Tranh thủ sự hỗ trợ của Tổng cục Du lịch để quảng bá hình ảnh du lịch Nghệ An ra thị trường quốc tế, khu vực.
- Nâng cao chất lượng các ấn phẩm quảng bá du lịch, đặc biệt là trang web du lịch và các phương tiện truyền hình, báo điện tử.
- Tăng cường liên kết với du lịch các tỉnh nhằm nâng cao vị thế và gắn Nghệ An vào chuỗi các sản phẩm du lịch liên vùng để thu hút khách.
3.5. Định hướng về phát triển nguồn nhân lực:
- Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước, quản lý kinh doanh du lịch, nhất là đội ngũ giám đốc các khách sạn nhỏ và vừa; đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ, ngoại ngữ và văn hoá giao tiếp ứng xử cho đội ngũ cán bộ và nhân viên trong các cơ sở kinh doanh du lịch, trọng tâm là thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò, huyện Nam Đàn.
- Nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề du lịch trong tỉnh theo tiêu chuẩn quốc gia và thông lệ quốc tế, trong đó sẽ lựa chọn đầu tư xây dựng 01 cơ sở đào tạo nghề du lịch có chất lượng trên cơ sở đào tạo đội ngũ giảng viên, hoàn thiện hệ thống giáo trình đạt chuẩn, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất phục vụ học tập và thực hành nghề.
- Đa dạng hóa hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực du lịch của tỉnh, gắn các cơ sở đào tạo nghề với các doanh nghiệp, khuyến khích hình thức đào tạo theo địa chỉ.
Theo Du lịch TP Vinh